7:30 sáng
Chuyến tàu trờ đến trạm dừng Chatswood, dòng người nối đuôi nhau đi vào khoang tàu, gọn gàng trong im lặng. Một bầy cừu trong cỗ máy của xã hội vận hành nhịp nhàng. Sống tại một thành phố lớn như Sydney, con người dường như tập cho mình thói quen… ‘lãnh cảm’.
Anh và cô là hai người trong số đó. 5 ngày một tuần, họ đứng đợi cùng một chỗ, cùng một giờ, lên cùng một chuyến tàu và dĩ nhiên là cùng vào khoang tàu cuối cùng của chuyến. Họ xuống cùng một trạm Wynyard trong trung tâm thành phố, hòa vào dòng người để ra cùng một cửa ra trên con đường York St., và rồi anh rẽ trái, còn cô rẽ phải.
Ngày trôi qua, tháng trôi qua, và năm cũng trôi qua, cả hai chưa bao giờ mở lời với nhau một câu nào dù họ nhận ra sự hiện diện thường xuyên của người còn lại.
Cuộc đời họ dường như chẳng bao giờ chạm nhau tại một điểm nào khác, ngoài chuyến tàu 7:30 sáng. Cô vẫn đứng đó mé cửa bên phải, và anh vẫn đứng đó mé cửa bên trái của khoang tàu, họ cùng bước vào và cùng bước ra.
Cô
Cuộc sống ở thành phố lớn quá bận rộn, quá nhiều âu lo. Cô lớn lên từ một vùng quê khô cằn Pardoo ở Tây Úc. Như bao người trẻ khác, cô không nghĩ cuộc đời mình có thể gắn liền với những hoang sơ. Thế là cô dọn lên ở Sydney từ khi học đại học, cô muốn làm nên điều kì diệu gì đó cho cuộc đời mình. Đến nay đã là 6 năm, và cô vẫn loay hoay ở thành phố lớn, vẫn cô đơn như vạn con người cô đơn. Cô mãi là một cô gái quê mùa tỉnh lẻ, chẳng thể nào hòa nhập được với cuộc sống thành thị dù cô có muốn thay da đổi thịt như thế nào.
Mỗi sáng và mỗi tối, cô đều nhìn thấy gương mặt mình trong gương, những đốm tàn nhan khắp mặt và cổ, cái mũi to quá khổ trên gương mặt cũng chẳng mấy thanh tú. Đã có lúc cô nghĩ sẽ dọn về Pardoo. Nhưng mà dọn về đấy thì còn lại gì cho cô ngoài đất đá và khô cằn? Hay ở lại Sydney để thấy lòng mình cũng dần khô hạn?
Người ở Sydney lạnh lùng, hay chí ít là lạnh lùng hơn so với những người ở quê cô. Có lẽ cuộc sống bận rộn đã làm cho người ta ngại mở lòng với nhau. Chỉ nội việc bước đi và gồng mình lên cũng đã tốn quá nhiều năng lượng. Người ở đây lịch thiệp, nhưng tất cả những gì họ thể hiện trên gương mặt mình, đều là những nét lịch thiệp được lập trình.
Anh là người duy nhất nổi bật giữa những con người lịch thiệp đó, bởi phong thái rất khác biệt.Có một hôm duy nhất cả hai tan sở làm cùng lúc và lại đi về chung một chuyến tàu, cô đã kịp để mắt đến anh từ khi đó. Cô bắt gặp hình ảnh anh nhìn xa xăm ra ô cửa sổ, gương mặt điển trai với bộ râu quai nón không quá dầy, tóc tai bù xù và quần áo anh đã xốc xổ ra cả bên ngoài. Anh vẫn im lặng tựa vào cửa, nhìn ra màn đêm rực rỡ ánh đèn của Sydney bên kia tấm kính.
Cô thấy ở anh, một nỗi cô đơn đồng điệu với nỗi cô đơn của chính mình. Cô vẫn tần ngần mãi không biết nên mở lời với anh như thế nào cho tự nhiên nhất, nhưng rồi lại thôi.
Cho đến một ngày…
Chuyến tàu màu vàng trờ đến trạm dừng, cô đứng lên khỏi ghế chờ và nối đuôi theo dòng người lên khoang. Cô xoay người nhìn một vòng, không thấy anh đâu. Cô không buồn nghĩ đến lý do vì sao người xa lạ kia lại không có mặt tại trạm tàu 7:30 sáng, cô chỉ biết, hôm nay chuyến tàu này không có anh.
Dòng người ngay ngắn di chuyển vào khoang tàu, mỗi người chọn cho mình một chỗ, cô vẫn chọn đứng gần cửa ra như mọi khi. Ai nấy đều yên vị và tàu bắt đầu lăn bánh. Ánh nắng sớm rọi vào từ những khung cửa sổ rộng, cả khoang tàu đều sáng bừng. Ở đó, là cả một thế giới của những người cúi mặt.
Cô đếm trong khoang tàu khi đó trên dưới 70 người, trong số đó khoảng 65 người đều cúi mặt vào màn hình điện thoại của mình, chỉ 5 người còn lại là không. 5 người lẻ loi gồm có hai ông bà lão nói chuyện với nhau, 1 ông bác đọc báo với tờ báo giơ ngang mặt, một ông bác ngủ gật tựa đầu vào thành tàu. 1 người trẻ còn lại, là cô. Nếu có anh ở đây, hẳn anh sẽ đứng ở cửa bên trái.
Anh có dáng đứng rất vững chãi, tay anh không vịn vào mất cứ chỗ nào, một tay đút vào túi áo hoặc túi tuần, tay còn lại anh cầm một quyển sách nhỏ. Cô để ý thấy anh hay đọc một cuốn sách đâu đó khoảng 2 tuần, sau đó anh sẽ đổi sang một cuốn mới. Nếu có anh ở đây, hẳn anh sẽ là người thứ 6 không chăm chăm vào màn hình điện thoại.
Sau khi quan sát chán chê cả một bầy người cúi mặt, cô lặng lẽ nhìn ra cửa sổ, thấy nắng lên đẹp rạng rỡ ngoài kia. Những dãy nhà mái ngói nối tiếp nhau. Lại một ngày đẹp trời, và chúng ta vẫn bận rộn với thế giới ảo của mình.
Chúng ta rời khỏi toa tàu này, là một toa tàu khác, hay một tòa nhà nào đó, một cái hộp hình chữ nhật. Ngay cả những khoảng nghỉ như thế này trong những chuyến đi, chúng ta cũng chọn cúi mặt nhìn vào chiếc điện thoại vuông vắn. Có lẽ, tận sâu trong lòng mỗi người, ai cũng mơ về biển cả và núi rừng...
Tàu dừng ở trạm Waverton, đột nhiên một bóng người ào vội vào khoang trước khi cánh cửa kịp khép lại. Là anh. Anh đứng trước mặt cô, thở phào một cái rõ to, mọi người xung quanh ngừng nhìn điện thoại và đưa mắt quan sát hành khách mới ào vào khoang tàu.
“You made it!”lần đầu tiên cô cất tiếng nói với anh.
Hơi thở của anh vẫn còn gấp gáp, anh nở nụ cười đáp lại câu nói của cô.
“Yeah! My bus was late this morning. I had to take another bus to this station instead.”
Và thế là câu chuyện của họ bắt đầu.
“Tôi là bạn đồng hành cùng chuyến tàu với cô mỗi sáng.”
“Ồ! Anh nhận ra tôi à?”
“Tôi không nghĩ là có thể nhầm lẫn cô sau 1 năm liền đi cùng chuyến tàu, chưa kể là vào cùng một khoang cuối của tàu.”
Cô bật cười: “Anh nói cũng phải. Rất vui được trò chuyện với anh, bạn đồng hành!”
“Cô làm việc ở trong city à? Tôi thấy cô xuống ở trạm Wynyard.”
“Tòa nhà tôi làm ở đối diện trạm tàu bên mé tay phải. Chỉ cần băng qua công viên là đến. Còn anh?”
“Văn phòng của tôi thì ở bên tay trái trạm Wynyard. Chắc là cô biết tòa nhà có quán cà phê Bar Bellacinođúng không? Chỗ tôi làm cách đấy 1 tòa nhà.”
“Tôi biết, tôi từng mua cà phê ở đó vài lần.”
“Tôi là khách quen ở đó. Họ pha ngon nhất trong thành phố, hoặc chí ít là họ pha ngon theo đúng ý tôi.”
“Anh làm tôi muốn ghé sang đấy mua cà phê ghê. Dù sao tôi cũng chưa uống ly nào sáng nay.”
“Nếu cô không ngại, tôi muốn mời cô ly cà phê này nhé?”
“Sẽ thật thất lễ nếu tôi từ chối lời mời của bạn đồng hành 1 năm trời,”cô cười.
Những câu chuyện của họ kéo dài hơn một chút và một chút mỗi ngày sau đó. Mỗi buổi sáng, cô có cơ hội để điệu đàng hơn một tí khi chuẩn bị đi làm. Cô chỉnh trang đầu tóc mình kĩ càng hơn, chọn đôi giày nào đi hợp với chiếc áo khoác nào, cô chọn loại nước hoa có mùi hương ấm của Givenchy mà cô thích nhất. Đã lâu rồi cô không nghĩ rằng cô sẽ lại cảm thấy mỗi ngày của mình có một điều gì đó để trông đợi. Đã lâu rồi, cô không hẹn hò.
Anh
Anh từng là cầu thủ rugby cho đội tuyển của Nam Phi, anh đến Sydney để luyện tập và thi đấu. Mỗi mùa giải trôi qua, anh cảm thấy tuổi tác và sức khoẻ của mình có phần thua sút, anh nhận ra mình phải thay đổi công việc để có thể ổn định lâu dài. Rugby cho anh rất nhiều cơ hội để đi thi đấu khắp nơi trên thế giới, nhưng đó là công việc ‘khắc nghiệt’, các cầu thủ nếu không chấn thương nghiêm trọng, thì cũng không mấy ai có thể trụ được quá lâu do tuổi tác và sức khoẻ không còn được như khi còn trẻ.
Thế là anh chọn học lên hệ Thạc sĩ quản trị kinh doanh, và bây giờ anh đã có một công việc tàm tạm giữa Sydney đắt đỏ. Anh vẫn thường xuyên về thăm gia đình mình ở Nam Phi, nhưng vẫn không nghĩ mình có thể quay về đó để sống.
Nam Phi quá hỗn loạn, thế hệ Tây trắng như anh sống tại Nam Phi đều cố gắng tìm đường di cư sang Úc, vì có nhiều cơ hội để phát triển sự nghiệp, và dĩ nhiên là đỡ phải lo lắng về việc lỡ bước chân ra đường bị bắn thiệt mạng vô tội vạ một ngày đẹp trời nào đó.
Tuy vậy, cuộc sống ở Sydney quá nhanh so với một Nam Phi còn hoang sơ, anh là một trong những gã cô độc giữa thành phố này. Mỗi ngày anh đều bắt chuyến tàu 7:30 sáng để đến trung tâm thành phố đi làm. Trên khoang cuối của chuyến tàu, anh luôn đứng ở cửa phía bên trái.
Mỗi ngày, khi chiếc tàu chạy xuyên lòng thành phố, chiếc cầu Cảng Sydney (Sydney Habour Bridge) hiện ra với khung “xương” đẹp mê hoặc. Phía bên dưới kia là mặt biển lấp lánh nắng, với những gợn sóng li ti. Cô ấy đứng đó bên cánh cửa, nắng rọi vào làm sáng bừng những sợi tóc lơ thơ màu cam. Người ta sẽ gọi cô là ‘ginger’, nhưng anh nghĩ cô đẹp như một thiên thần.
Mỗi sáng, cô đứng đợi cùng chuyến tàu với anh, lên cùng một khoang tàu cuối cùng, anh sẽ đứng đó ở ô cửa bên trái, và cô sẽ tắm mình trong ánh nắng sớm từ ô cửa bên phải. Cô sẽ cầm ly cà phê thuỷ tinh có miếng đệm màu xanh quen thuộc của mình và uống trọn nó sau khi tàu di chuyển qua khỏi 4 trạm đầu tiên của chuyến hành trình. Anh ở đó, lặng lẽ quan sát cô sau những trang sách mà anh cố giữ cho tâm trí mình được tập trung.
Lần đầu tiên anh nhận ra sự hiện diện của cô, là vào một ngày đông lạnh lẽo. Cơn mưa sáng tuôn xối xả xuống toàn bộ những vị khách bộ hành trước khi họ đến được ga tàu đông nghìn nghịt. Cô đứng đó, giữa một rừng người, và khóc. Phải nhìn rất kĩ anh mới dám khẳng định là cô gái ấy khóc, nếu không ai cũng sẽ nghĩ rằng mặt cô ướt nước mưa và mascara tèm nhẹp ra thế thôi. Nhưng cô khóc, đôi mắt xanh lá nhạt của cô đầy nước, và cứ thế lăn dài xuống gò má.
Anh ước gì, mình đã đem theo một chiếc khăn tay, như cái thói quen xưa cũ của ông bà ta ngày trước, nhưng cái mà anh có trong tay chỉ là một mảnh khăn giấy nhàu nhĩ anh moi được trong túi quần. anh đứng tần ngần cho đến khi tàu chạm bến, mọi người lũ lượt kéo lên lấp đầy những chỗ trống. Cô vẫn đứng ở mé cửa, cách anh một rừng người. Anh vẫn cầm trên tay mảnh khăn nhàu nhĩ.
Cho đến một ngày…
Chuyến xe buýt trước nhà anh sáng hôm ấy trục trặc nên nó đến muộn hơn bình thường. Anh quyết định xuống ở gần trạm Waverton và bắt tàu từ đoạn đó thay vì đến Chatswood, vì nếu đúng theo dự tính của anh thì chuyến tàu 7:30 sẽ ghé Waverton trong vòng 10 phút nữa.
Anh chạy ào lên khoang cuối cùng trước khi cánh cửa kịp khép lại, và cô đứng ở đó, giương đôi mắt xanh ngỡ ngàng nhìn anh. Anh cảm thấy như tim mình vừa đánh lỗi một nhịp, vì hình như anh vừa thấy cô nhoẻn miệng cười nhìn anh.
Anh lắp bắp: “Chào buổi sáng!”
Cô nghiêng đầu, ra vẻ như ‘anh đang chào tôi?’, anh ngại quá suýt xách túi đi về phía cửa bên trái đứng thì cô cất lời:
“Chào buổi sáng bạn đồng hành. Tôi tưởng hôm nay anh không đi làm.”
“Cô nhận ra tôi?”
“Tôi không nghĩ có thể quên được mặt anh sau gần 1 năm đi cùng chuyến tàu.”
“Cũng phải.”anh đưa tay gãi đầu.
“Văn phòng của anh nằm gần Wynyard nhỉ?”
“Đúng rồi, văn phòng tôi cách Wynyard chừng 1 phút đi bộ thôi. Văn phòng cô cũng gần đó nhỉ?”
“Văn phòng tôi nằm phía bên kia công viên, gần quán cà phê Regiment.”
“A, tôi có biết quán đó, chỗ đó có đồ ăn trưa khá ngon.”
“Ngon thật, lại tốt cho sức khoẻ nữa. Tôi cũng hay ăn trưa ở đấy.”
“Nếu cô không ngại thì trưa nay tôi mời cô bữa trưa ở Regiment nhé? Xem như lần đầu nói chuyện sau 1 năm đi cùng chuyến tàu.”
“Hay đấy! Tôi sẽ mời anh uống gì đó vậy.”
Và thế là những câu chuyện của họ kéo dài thêm một chút mỗi ngày sau đó, những bữa ăn trưa anh không còn lủi thủi một mình. Ngày và đêm đối với anh dường như đã có thêm một chút sắc màu. Đó là màu cam của mái tóc cô, màu xanh của bầu trời và mặt biển lấp lánh, màu vàng của chuyến tàu 7:30 sáng, và màu nắng. Trước khi gặp cô, anh không nghĩ nắng có màu, nhưng bây giờ anh đã biết, màu nắng là màu xanh đôi mắt của cô mỗi khi cô nheo mắt cười.
“NEXT STOP WYNYARD.”
Tiếng loa phát thanh kéo cả anh và cô về thực tại. Anh đã bước lên tàu ở trạm Waverton sáng này, và cô đã giương đôi mắt xanh lá ngỡ ngàng nhìn anh. Anh lẳng lặng đi về phía cửa bên trái như mọi khi, trên tay vẫn khư khư cuốn sách của mình. Cô đưa ly cà phê thuỷ tinh có miếng đệm màu xanh lên nhấp một ngụm cuối cùng, đưa mắt nhìn ra khung cảnh bên kia ô cửa sổ.
Tàu dừng ở Wynyard, họ cùng bước ra khỏi khoang tàu, đi lên thang cuốn ở cửa ra York st., và bước ra khỏi ga. Anh rẽ trái và cô rẽ phải.
Ngày trôi qua, tháng trôi qua, và năm cũng trôi qua, cả hai chưa bao giờ mở lời với nhau một câu nào dù họ nhận ra sự hiện diện thường xuyên của người còn lại.
Cuộc đời họ dường như chẳng bao giờ chạm nhau tại một điểm nào khác, ngoài chuyến tàu 7:30 sáng.
Cho đến một ngày…
Mip
Comments